- Nguy cơ chảy máu:
Nên cân bằng giữa việc sử dụng ticagrelor ở bệnh nhân được biết có tăng nguy cơ chảy máu với lợi ích trong phòng ngừa các biến cố huyết khối xơ vữa. Nếu được chỉ định trên lâm sàng, nên lưu ý khi dùng ticagrelor ở những nhóm bệnh nhân sau đây:
+ Bệnh nhân có xu hướng bị chảy máu (ví dụ vừa bị chấn thương, vừa tiến hành phẫu thuật, rối loạn đông máu, đang hoặc vừa bị chảy máu đường tiêu hóa). Ticagrelor chống chỉ định ở bệnh nhân đang bị chảy máu do bệnh lý, có tiền sử xuất huyết não, và bệnh nhân suy gan nặng.
+ Bệnh nhân dùng đồng thời với các thuốc làm tăng nguy cơ chảy máu (như thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDS), thuốc chống đông máu đường uống và/hoặc các thuốc tiêu sợi huyết) trong vòng 24 giờ trước khi dùng ticagrelor.
Chưa có dữ liệu về ticagrelor liên quan tới khả năng cầm máu khi truyền tiểu cầu; ticagrelor tuần hoàn trong máu có thể ức chế các tiểu cầu được truyền vào. Vì dùng đồng thời ticagrelor với desmopressin không làm giảm thời gian chảy máu, desmopressin rất có thể không có hiệu quả kiểm soát các biến cố chảy máu trên lâm sàng.
Điều trị bằng thuốc chống tiêu sợi huyết (acid aminocaproic hoặc acid tranexamic) và/hoặc yếu tố tái tổ hợp VIIa có thể giúp tăng cầm máu. Sau khi xác định và kiểm soát được nguyên nhân gây chảy máu có thể dùng lại ticagrelor.
- Phẫu thuật
Bệnh nhân nên thông báo cho bác sỹ và nha sĩ biết rằng họ đang dùng ticagrelor trước khi ấn định bất kỳ một cuộc phẫu thuật hoặc uống bất kỳ thuốc mới nào.
Trong nghiên cứu PLATO trên phân nhóm bệnh nhân phẫu thuật bắc cầu mạch vành (CABG), ticagrelor gây chảy máu nhiều hơn clopidogrel khi ngưng điều trị 1 ngày trước khi phẫu thuật nhưng có cùng tỷ lệ gây chảy máu nặng với clopidogrel sau khi ngưng thuốc trên 2 ngày trước khi phẫu thuật. Nếu bệnh nhân chuẩn bị phải phẫu thuật không cấp thiết và tác động chống kết tập tiểu cầu không như mong muốn, nên ngưng dùng ticagrelor 7 ngày trước khi phẫu thuật.
- Bệnh nhân có nguy cơ bị các biến cố nhịp tim chậm
Dựa vào quan sát mô tả hầu hết các trường hợp ngưng thất không triệu chứng trong một nghiên cứu lâm sàng trước đây, những bệnh nhân có nguy cơ cao bị chậm nhịp tim (như hội chứng suy nút xoang không đặt máy tạo nhịp, block nhĩ thất độ 2 hoặc 3 hoặc bị ngất liên quan đến nhịp tim chậm) đã được loại trừ khỏi nghiên cứu PLATO khi đánh giá tính an toàn và hiệu quả của ticagrelor. Do đó, vì kinh nghiệm lâm sàng hạn chế, nên thận trọng khi dùng ticagrelor cho những bệnh nhân này.
Hơn nữa, nên thận trọng khi dùng ticagrelor đồng thời với các thuốc làm chậm nhịp tim. Tuy nhiên không có bằng chứng ghi nhận các phản ứng không mong muốn đáng kể trên lâm sàng trong thử nghiệm PLATO sau khi dùng chung với một hoặc nhiều thuốc làm chậm nhịp tim (ví dụ, 96% trường hợp dùng ức chế bêta, 33% trường hợp dùng thuốc ức chế kênh calci diltiazem và verapamil, và 4% trường hợp dùng digoxin).
Suốt quá trình nghiên cứu trên phân nhóm bệnh nhân chạy Holter trong thử nghiệm PLATO, có nhiều bệnh nhân ngưng thất trên 3 giây với ticagrelor hơn so với clopidogrel trong giai đoạn cấp của hội chứng mạch vành cấp. Sự gia tăng số trường hợp ngưng thất xác định bằng Holter khi dùng ticagrelor cao hơn ở nhóm bệnh nhân suy tim sung huyết trên tổng số đối tượng nghiên cứu trong giai đoạn cấp của hội chứng mạch vành cấp, mà không xảy ra trên nhóm dùng ticagrelor trong một tháng hoặc khi so sánh với clopidogrel. Không có tác dụng lâm sàng không mong muốn nào liên quan đến sự mất cân bằng (bao gồm ngất hoặc đặt máy tạo nhịp) ở các bệnh nhân này.
- Bệnh nhân từng bị đột quỵ thiếu máu cục bộ
Bệnh nhân có hội chứng mạch vành cấp và từng bị đột quỵ thiếu máu cục bộ có thể được điều trị với ticagrelor lên đến 12 tháng. Trong nghiên cứu PEGASUS, không có sự tham gia của bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim kèm đột quỵ thiếu máu cục bộ trước đó. Vì vậy, do thiếu thông tin, điều trị với ticagrelor trên 1 năm ở những bệnh nhân này không được khuyến cáo.
- Khó thở
Có 13,8% bệnh nhân dùng ticagrelor ghi nhận bị khó thở so với 7,8% bệnh nhân dùng clopidogrel. Trong 2,2% bệnh nhân, các nhà nghiên cứu đã cân nhắc thấy khó thở có liên quan đến việc dùng ticagrelor. Triệu chứng này thông thường ở mức độ từ nhẹ đến vừa và tự hồi phục mà không cần ngưng điều trị. Bệnh nhân hen suyễn/COPD tăng nguy cơ bị khó thở khi dùng ticagrelor. Phải thận trọng khi dùng ticagrelor cho bệnh nhân có tiền sử bị hen suyễn và/hoặc COPD. Cơ chế chưa được rõ. Nếu bệnh nhân báo cáo bị cơn khó thở mới, kéo dài hoặc nặng lên, phải theo dõi chặt chẽ và nếu quá trầm trọng, phải ngưng dùng ticagrelor.
- Tăng creatinin
Nồng độ creatinin có thể tăng khi điều trị với ticagrelor. Cơ chế chưa được rõ. Nên kiểm tra chức năng thận sau một tháng và sau đó căn cứ vào thực tế điều trị hàng ngày, lưu ý đặc biệt đến bệnh nhân ≥ 75 tuổi, bệnh nhân suy thận vừa/nặng và những bệnh nhân đang điều trị đồng thời với một thuốc ức chế thụ thể angiotensin.
- Tăng acid uric
Trong nghiên cứu PLATO, bệnh nhân dùng ticagrelor có nguy cơ tăng acid uric huyết cao hơn bệnh nhân dùng clopidogrel. Thận trọng khi dùng ticagrelor cho bệnh nhân có tiền sử tăng acid uric máu hoặc bệnh gút. Để đề phòng, không nên sử dụng ticagrelor cho bệnh nhân bị bệnh thận do acid uric.
- Khác:
Dựa trên mối liên hệ quan sát được trong nghiên cứu PLATO giữa liều duy trì ASA và hiệu quả tương ứng của ticagrelor so sánh với clopidogrel, không dùng đồng thời ticagrelor với liều duy trì ASA cao (> 300 mg).
- Ngừng sớm
Việc ngừng sớm điều trị với bất kì thuốc ức chế kết tập tiểu cầu, bao gồm, ticagrelor, có thể gây ra nguy cơ tử vong do tim mạch hoặc nhồi máu cơ tim do bệnh sẵn có của bệnh nhân. Vì vậy, nên tránh việc ngừng sớm.